Ý kiến ​​biên tập của Đại sứ Úc tại Việt Nam, Ngài Andrew Goledzinowski

Lịch sử của các quốc gia hiếm khi di chuyển theo đường thẳng. Các kỷ nguyên cải cách chính sách và cơ cấu thực sự là rất hiếm. Nhưng khi chúng xảy ra, chúng thường được theo sau bởi các giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng kéo dài. Đây là kinh nghiệm của Úc sau các cuộc cải cách vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Nhưng cuối cùng, tất cả các cuộc cải cách, theo bản chất của chúng, đều trở nên lỗi thời và tình trạng kém hiệu quả lại len lỏi vào hệ thống. Sự trì trệ kinh tế có thể xảy ra sau đó. Ở một số quốc gia, một chu kỳ cải cách khác cuối cùng cũng được khởi xướng. Ở những quốc gia khác, tình trạng trì trệ chỉ tiếp tục vô thời hạn.

Ở Việt Nam, cuối những năm 1980 cũng là thời kỳ thay đổi táo bạo – thay đổi tạo điều kiện cho nhiều thập kỷ thành công. Một kỹ sư Việt Nam lớn tuổi đã giải thích với tôi về Đổi Mới như thế này: ông ấy nói rằng nó giống như một lò xo cơ khí khổng lồ thúc đẩy nền kinh tế và xã hội Việt Nam tiến lên trong nhiều năm. Nhưng “lò xo đó đã cạn kiệt năng lượng và cần một lò xo mới để thúc đẩy đất nước tiến lên một lần nữa”, ông nói.

Trong thời gian ở Việt Nam, tôi đã hiểu được tầm quan trọng của sự cân bằng và hài hòa trong xã hội Việt Nam. Điều này có nghĩa là sự cân bằng giữa các lực lượng của Âm, đại diện cho sự đổi mới và sáng tạo, và Dương đại diện cho sự ổn định và liên tục. Tôi đã học được rằng Dương là xu hướng chủ đạo trong lịch sử Việt Nam, nhưng nó xen kẽ với các giai đoạn của Âm, khi những thay đổi quan trọng diễn ra.

Ngày nay, với tôi (là một người quan sát nước ngoài), tôi cảm thấy chúng ta đang ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên Âm mới. Tôi cảm nhận được sự đồng thuận rộng rãi, trong toàn thể dân chúng, rằng một giai đoạn đổi mới mới là cần thiết. Nhưng cũng có một số hoài nghi về việc liệu điều đó có khả thi hay không. Vì vậy, mục đích của tôi khi viết bài viết này là cung cấp một góc nhìn đồng cảm nhưng trung thực về các xu hướng hiện tại.

Sự thay đổi, đặc biệt là khi mang tính cách mạng, thường gây bất ổn và ngay cả những thay đổi cần thiết nhất cũng không tránh khỏi tạo ra người chiến thắng và kẻ thua cuộc. Trong bối cảnh của Úc, những thay đổi chính sách lớn thường đi kèm với cuộc tranh luận công khai mạnh mẽ. Chúng tôi coi trọng điều đó. Nhưng đôi khi những cải cách rất cần thiết lại thất bại do những khác biệt đảng phái hoặc bất đồng chính trị. Hệ thống của Việt Nam dựa nhiều hơn vào sự đồng thuận. Tôi không nghĩ bất kỳ hệ thống nào hoàn toàn phù hợp để điều hướng sự thay đổi và mọi hệ thống đều có những ví dụ về thành công và thất bại. Nhưng sự lãnh đạo mạnh mẽ và sự kiên trì luôn là những yếu tố quan trọng.

Vào Chủ Nhật ngày 1 tháng XNUMX, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu tại một hội nghị đặc biệt của Bộ Chính trị và Ban Bí thư Đảng. Có nhiều điều đáng trân trọng trong bài phát biểu và nó xứng đáng được phân tích kỹ lưỡng. Có một số điều khiến tôi chú ý ngay lập tức.

Đầu tiên, không có ngôn ngữ ý thức hệ – bài phát biểu tập trung vào hành động hơn là ý tưởng.

Thứ hai, thay vì kêu gọi tăng đầu tư nước ngoài, cơ sở hạ tầng và chuyển đổi năng lượng như thường lệ, trọng tâm lại là tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện tất cả những điều này.

Cuối cùng, ngôn ngữ rất trực tiếp. Tổng thư ký giơ một tấm gương, trong đó mọi người đều có thể thấy hình ảnh phản chiếu của mình. Đó thực sự là một tuyên bố rất mạnh mẽ.

Trọng tâm của ông là bộ máy chính phủ và các cách cải thiện hoạt động của chính phủ. Trung tâm Việt Nam Úc (VAC) thuộc Học viện Chính trị Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho nhiều nghiên cứu và trao đổi về cải cách công chức. Để có hiệu quả, sự thay đổi không chỉ mang tính cấu trúc mà còn mang tính văn hóa và ở mọi cấp độ. Các mô hình công chức tốt nhất khen thưởng sáng kiến ​​trong khi nhấn mạnh trách nhiệm giải trình, trách nhiệm và tính minh bạch.

Nhưng đối với tôi, phần nổi bật nhất của bài phát biểu là cam kết tăng trưởng kinh tế hai chữ số – điều vừa thiết yếu vừa có thể đạt được, nhưng sẽ đòi hỏi một cách thức kinh doanh mới. Các chính phủ trước đây dường như rất vui khi thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến lên với mức tăng trưởng ổn định 6-7%, trong khi vẫn giữ cả hai tay trên vô lăng. Để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn – loại tốc độ mà Trung Quốc đã đạt được khi ở mức GDP bình quân đầu người như Việt Nam hiện nay – chính quyền sẽ cần phải buông tay lái và chỉ đạo kinh tế từ ghế sau. Có những ví dụ ở Đông Á cho thấy điều đó có thể thực hiện được.

Kỷ nguyên mới của Việt Nam đang bắt đầu vào thời điểm quan trọng. Các điều kiện toàn cầu đang trở nên thách thức hơn. Trên mặt trận kinh tế, cái gọi là chiến lược Trung Quốc + 1 có thể giúp Việt Nam. Nhưng nửa thế kỷ toàn cầu hóa ổn định có thể đã kết thúc. Chúng ta đang trong giai đoạn giảm rủi ro và tách rời, chuỗi cung ứng ngắn hơn và có thể là thuế quan cao hơn. Điều này không lý tưởng cho các quốc gia giao dịch như Việt Nam và Úc. Nhưng Việt Nam có một số lợi thế đáng kể. Có sự quan tâm rất lớn đến Việt Nam vào thời điểm vốn toàn cầu đang tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn. Nhưng tiền giống như nước. Nó thích chảy xuống dốc. Nó không chờ đợi. Và khi bị chặn lại, nó sẽ chảy đi nơi khác.

Có một bức tường tiền có sẵn cho Việt Nam, đặc biệt là từ các nhà đầu tư tổ chức, nếu các thiết lập pháp lý và quy định là chính xác. Đối với các nhà đầu tư Úc, điều này có nghĩa là phê duyệt nhanh hơn, luật thuế rõ ràng hơn, sự chắc chắn về mặt quy định và khả năng thoái vốn nếu và khi thời điểm đến.

Môi trường địa chiến lược hiện tại cũng khó khăn. Toàn bộ hậu quả của cuộc xâm lược Ukraine của Nga, bao gồm cả đối với khu vực của chúng ta, vẫn đang diễn ra. Xung đột, căng thẳng và sự sắp xếp lại đang lan rộng khắp thế giới. Nhiều trong số này có mối liên hệ với nhau. May mắn thay, Bộ Ngoại giao Việt Nam và các nhà ngoại giao của họ là một tài sản quốc gia lớn, và ngoại giao của họ được thế giới ngưỡng mộ. Trước sự cạnh tranh địa chính trị gia tăng, tôi hy vọng rằng Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì sự trung lập thận trọng của mình. Tôi cũng hy vọng sự tham gia của Việt Nam với thế giới sẽ tăng lên, nhưng theo các điều khoản của riêng mình và theo lợi ích của riêng mình.

Việt Nam và Úc là những đối tác không có nhiều điểm chung, khác biệt theo nhiều cách. Nhưng 50 năm hợp tác đã tạo nên mối quan hệ tin cậy và tôn trọng lẫn nhau. Chúng tôi từng nằm trong ba nhà đầu tư hàng đầu của Việt Nam, cung cấp cáp ngầm đầu tiên, liên kết vệ tinh đầu tiên, đường dây điện 500 KV bắc-nam đầu tiên và những cây cầu đầu tiên bắc qua sông Mê Kông. Khi Việt Nam leo lên đường cong giá trị và hiện đại hóa nền kinh tế, các cơ hội hợp tác với Úc sẽ lại tăng lên. Hiện tại, tôi có các công ty Úc sẵn sàng đầu tư vào công suất điện gió ngoài khơi của Việt Nam, vào chế biến đất hiếm và các khoáng sản quan trọng như vonfram, vào chuyển đổi số và công nghệ nông nghiệp, và vào giáo dục đại học. Tôi hy vọng các dự án của chúng tôi sẽ tiến triển trong tất cả các lĩnh vực này.

Mục đích của tôi khi viết bài viết này là nêu rõ sự ủng hộ mạnh mẽ của Úc đối với hướng đi mà Việt Nam đang thực hiện. Các bạn là một quốc gia quan trọng đối với chúng tôi – và không chỉ là một đối tác thương mại. Lịch sử, địa lý và lẽ thường cho chúng ta biết rằng một Việt Nam hòa bình, thịnh vượng và có chủ quyền là điều cần thiết cho sự ổn định và thịnh vượng của khu vực chúng ta. Và mặc dù những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt có thể rất đáng kể, nhưng chúng chẳng là gì so với những thách thức mà Việt Nam đã từng phải đối mặt và vượt qua.

Trước đây tôi đã từng đùa rằng Việt Nam giống như một chiếc Vinfast VF8 – với phanh tay vẫn còn nguyên. Phanh tay sắp được tung ra và cả thế giới sẽ kinh ngạc trước sự tăng tốc nhanh chóng của Việt Nam vào một tương lai mới và thú vị.

Thật đáng buồn, thời gian của tôi ở Việt Nam sắp kết thúc. Nhưng tôi sẽ để lại một phần của mình, với những người Việt Nam tuyệt vời. Tôi mong muốn được tiếp tục kết nối với Việt Nam và với tất cả những người bạn mà tôi đã kết bạn ở đây.

Andrew Goledzinowski
Đại sứ

Bài viết này ban đầu được đăng trên báo Nhân Dân. Có thể xem bằng tiếng Anh qua báo Hanoi Times, vui lòng nhấp vào đây: vào đây.

ngày xuất bản
Chủ nhật ngày 15 tháng 2024 năm XNUMX
Tác giả
Andrew Goledzinowski
Đại sứ Úc tại Việt Nam