Để đánh dấu kỷ niệm 50 năm trở thành đối tác đối thoại đầu tiên với ASEAN, Australia sẽ tổ chức Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt tại Melbourne vào tháng XNUMX này. Và có rất nhiều điều để ăn mừng.
Đặc biệt, mối quan hệ song phương với Việt Nam cần được nhấn mạnh. Quan hệ Australia-Việt Nam đang có đà tích cực và mọi dấu hiệu đều cho thấy quỹ đạo tích cực khó có thể bị gián đoạn. Hai nước bổ sung cho nhau về nhiều mặt, ngày càng trở nên thống nhất trong một số quan điểm chiến lược quan trọng và cả hai đều thấy nhau hỗ trợ và nói thẳng ra là hữu ích cho các mục tiêu chiến lược của riêng mình.
Trong bối cảnh toàn cầu căng thẳng địa chính trị gia tăng và cạnh tranh Mỹ-Trung ngày càng gay gắt, Australia nhận thấy cần phải quan tâm nhiều hơn đến các đối tác trong khu vực, và trong số đó, một trong những cường quốc năng động hơn trong khu vực – Việt Nam. Hai nước đã ký quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2018 và Thủ tướng Albanese thăm Việt Nam vào tháng 2023/50 nhân kỷ niệm XNUMX năm quan hệ song phương. Bất chấp những khác biệt về hệ thống chính trị và những giá trị nhất định đó, Canberra và Hà Nội ngày càng thống nhất hơn về các ưu tiên chiến lược – có cùng quan điểm về nhiều mặt. Cả hai đều có cùng quan điểm về những thách thức chiến lược do Trung Quốc đặt ra. Cả hai đều thừa nhận rằng Biển Đông và sông Mê Kông là những sân khấu chiến lược quan trọng. Cả hai đều tin tưởng và mong muốn xây dựng thêm hợp tác quốc phòng, an ninh với Nhật Bản.
Bất chấp những khác biệt trong cách Canberra và Hà Nội tiếp cận từng cường quốc, cả hai đều có mục tiêu giống nhau – duy trì hòa bình, ổn định và khả năng dự đoán trong khu vực. Australia và Việt Nam cũng chia sẻ mong muốn về một trật tự dựa trên luật lệ nhằm mang lại một sân chơi bình đẳng hơn cho cả các cường quốc lớn và nhỏ. Cả Australia và Việt Nam đều thể hiện thái độ tương tự trong việc duy trì chủ nghĩa đa phương.
Tuy nhiên, có một số lĩnh vực mang lại những cơ hội quan trọng cho Australia và Việt Nam không chỉ để tận dụng động lực tích cực hiện tại và làm sâu sắc thêm mối quan hệ song phương mà còn để củng cố những mối quan hệ đó trong tương lai. Và điều gì hướng tới tương lai hơn công nghệ?
Năng lực và khả năng phục hồi không gian mạng của Úc thuộc hàng tốt nhất thế giới và ở một mức độ nào đó, nước này đã nhận ra vai trò tiềm năng của mình trong việc định hình các tiêu chuẩn mạng mới nổi. Ngoại giao kỹ thuật số, công nghệ và khoa học là tương lai và càng trở nên quan trọng hơn đối với quá trình phục hồi sau Covid. Chúng không chỉ là tương lai cho sự can dự ngoại giao hoặc thay thế viện trợ truyền thống cho khu vực mà còn có thể mang lại lợi ích cho Australia bằng cách tạo dựng mối quan hệ kinh tế bền vững với các đối tác trong khu vực, một số đối tác trong số đó đang trên đà vượt qua GDP của Australia về mặt kinh tế. trong một vài thập kỷ. Cần coi đây là khoản đầu tư cho sự phát triển hai chiều trong tương lai chứ không chỉ là viện trợ một chiều.
Đại dịch Covid-19 đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi kỹ thuật số trên toàn cầu và Đông Nam Á cũng không ngoại lệ. Với tư cách là một khu vực, Đông Nam Á là một trong những khu vực thay đổi năng động nhất và là một trong những khu vực nội bộ đa dạng nhất trên thế giới khi nói đến cách mạng công nghệ và truy cập trực tuyến. Việt Nam nằm trong số những quốc gia dẫn đầu khu vực về phát triển thị trường thương mại điện tử và là nơi tập trung hầu hết các trung tâm đổi mới năng động. Với chiến lược tách rời của Mỹ, hay gần đây là chiến lược giảm rủi ro, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến được các công ty công nghệ lớn mong muốn nhất. Nó tiếp tục thu hút đầu tư lớn cho các công ty đang tìm cách di dời khỏi Trung Quốc, cũng như hỗ trợ Việt Nam khẳng định vị thế mới trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn toàn cầu. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực hết sức để tạo ra môi trường thuận lợi cho dòng người nhập cư quy mô lớn này và có lý do để tự hào về sự thay đổi công nghệ nhanh chóng của đất nước. Nhưng vẫn còn những khoảng trống về cơ sở hạ tầng quan trọng cũng như năng lực CNTT của nguồn nhân lực tràn đầy năng lượng.
Sự tham gia và phạm vi hợp tác của Australia có vai trò quan trọng. Chính phủ Úc nên tập trung vào giáo dục, đào tạo và hỗ trợ năng lực kỹ thuật số của các nước láng giềng. Điều này có thể bao gồm từ việc cung cấp máy tính, phần cứng cũng như xây dựng kỹ năng và khả năng đào tạo lại và thích ứng với cuộc cách mạng công nghệ. CSIRO của Úc hợp tác với DFAT đã hoạt động tại Đại sứ quán Úc tại Singapore và Việt Nam trong nhiều năm. Mục đích là đầu tư mang lại lợi ích lâu dài cho Australia. Trong khi năng lực kỹ thuật của các nước láng giềng của Úc có thể vẫn còn thiếu, thì trong vòng chưa đầy hai thập kỷ nữa, Đông Nam Á, với Việt Nam là một trong những quốc gia dẫn đầu, sẽ là trung tâm tăng trưởng và có khả năng trở thành trung tâm kinh tế năng động hơn nhiều so với Úc. Việc đầu tư sớm và gắn kết vào tăng trưởng kỹ thuật số ở Đông Nam Á không phải là một hoạt động từ thiện hay giúp đỡ; họ đang đầu tư vào việc mở rộng kinh tế trong tương lai của Australia.
Trong nhiều sáng kiến khác, Chính phủ Australia đang theo đuổi các hoạt động tích cực chiến lược tương tác kỹ thuật số và đã góp phần hỗ trợ Internet mở, miễn phí và an toàn. Nó cũng đã hỗ trợ các nước ASEAN làm quen với các Quy chuẩn mạng của Liên hợp quốcvà tiến hành các hội thảo xây dựng năng lực mạng ở Indonesia và một số quốc gia Đông Nam Á khác trong vài năm qua. Có nhiều chuẩn mực, tiêu chuẩn và quy định phía trước cần nỗ lực tập thể và hợp tác chặt chẽ để giải quyết, do tính chất phức tạp và linh hoạt của vấn đề. Cùng với nhiều cơ hội, cũng có những rủi ro bảo mật ngày càng tăng, các mối đe dọa trên mạng, các vấn đề về quyền riêng tư, hoạt động tội phạm hoặc thông tin sai lệch lan rộng và lạm dụng công nghệ.
Úc và Việt Nam, giống như nhiều quốc gia khác, cần đặt những thách thức này lên hàng đầu trong chiến lược quốc gia và chương trình hợp tác quốc tế của mình. Được coi là nước tiên phong trong lĩnh vực này, Australia nên xoay trục hợp tác với Đông Nam Á dựa trên việc xây dựng năng lực kỹ thuật số và đầu tư vào tăng trưởng công nghệ. Họ nên đầu tư và củng cố các nguồn lực cũng như hợp tác với nhiều cơ quan và công ty công nghệ tư nhân, những người nhận ra tác động lâu dài của sự tham gia của họ với khu vực trong lĩnh vực có thể tạo ra sự khác biệt thực sự. Phát triển công nghệ chắc chắn là một lĩnh vực mà các bên cùng quan tâm lâu dài, có thể tạo dựng các kết nối lâu dài và cùng nhau xây dựng lợi ích trong tương lai.
Giới thiệu về Tiến sĩ Hương Lệ Thu
Tiến sĩ Hương LÊ THU (hay Lê Thu Hường) là một trí thức, nhà văn, nhà bình luận, nhà phân tích chính sách và học thuật có năng suất cao, có kinh nghiệm làm việc trên khắp Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Bà hiện là Phó Giám đốc Chương trình Châu Á, Nhóm Khủng hoảng Quốc tế. Bà đã giữ các chức vụ tại Đại học Quốc gia Úc (Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng), Viện Chính sách Chiến lược Úc. Hương cũng là cố vấn cho Viện Griffith Châu Á (GAI) tại Đại học Griffith, AP4D và liên kết với Trường Cao đẳng An ninh Quốc gia. Hương là một nhà phân tích chính sách có ảnh hưởng và là người ủng hộ lâu dài cho quan hệ Australia-Việt Nam và Australia-ASEAN.
Bà là một chuyên gia được công nhận về Đông Nam Á, bao gồm cả địa chính trị, công nghệ và quan hệ khu vực với các cường quốc. Tiếng nói của cô thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện truyền thông toàn cầu, bao gồm The Foreign Policy, The Financial Times, The Washington Post, The New York Times, The Los Angeles Times, Nikkei Asian Review, The Australian Financial Review, The Straits Times, Japan Times, cùng nhiều báo khác. Hương là một nhà văn viết nhiều và các ấn phẩm học thuật của cô, bao gồm Tạp chí An ninh Châu Á, Tạp chí Châu Á-Thái Bình Dương, Chính sách Châu Á, Nhà xuất bản Đại học Oxford đều đưa tin về giáo trình của các trường đại học hàng đầu, trong đó có Đại học Cambridge. Năm 2019, cô được công nhận là “40 người Úc gốc Á dưới 40 tuổi” có ảnh hưởng nhất trong năm.
Tiến sĩ Hương Lệ Thu đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Cố vấn AVPI. Thành viên Ban cố vấn sẽ được công bố trong những tháng tới.